Điều trị hen phế quản

Hen hàn:

Triệu chứng:

- Thay đổi thời tiết, lạnh nhiều xuất hiện cơn khó thở ra, kèm có tiếng rên rít.

- Ho đờm trong loãng trắng có bọt.

- Ngực đầy tức như bị nghẹt, khi cố dùng sức để thở thì có tiếng kêu phát ra.

- Người lạnh, sợ lạnh, sắc mặt xanh tái, thích uống nước nóng.

- Rêu lưỡi trắng mỏng, ướt trơn.

- Mạch phù (nếu do hàn tà gây nên; mạch trầm khẩn nếu cả trong ngoài đều có hàn).

Pháp trị: ôn phế tán hàn, trừ đờm, định suyễn.

Phương dược: Tô tử giáng khí thang: tô tử, sinh khương, nhục quế, chích thảo, bán hạ, trần bì, hậu phác, tiền hồ, đương quy.

Ý nghĩa: tô tử để giáng khí hóa đàm bình suyễn chỉ ho; bán hạ, hậu phác, trần bì để khử đàm chỉ ho bình suyễn; nhục quế để ôn thận khu lý hàn, nạp khí bình suyễn; đương quy để dưỡng huyết bổ can kết hợp với quế để bổ hư ở hạ tiêu do thận không nạp khí; sinh khương để tán hàn tuyên phế; chích thảo hòa trung điều hòa các vị thuốc.

Phương huyệt: cứu tả Đại chùy, Phong trì, Phong môn, Liệt khuyết, Đản trung, Thiên đột, Phong long, Định suyễn.

Sa sâm, mạch môn để bổ dưỡng khí âmĐiều trị hen phế quảnSa sâm, mạch môn để bổ dưỡng khí âm

Hen nhiệt:

Triệu chứng:

- Khi gặp trời nóng nực thì lên cơn khó thở ra, thở mạnh thở gấp rút cảm giác ngộp.

- Ho nhiều, đàm vàng đặc đục, dẻo dính, khó khạc.

- Ngực đầy, khó thở kèm tiếng kêu phát ra.

- Lưỡi đỏ rêu lưỡi vàng nhờn.

- Mạch hoạt sác.

Pháp trị: thanh nhiệt, tuyên phế hóa đàm.

Phương dược: Tang bạch bì thang: tang bạch bì, hoàng cầm, hoàng liên, sơn chi, hạnh nhân, bối mẫu, tô tử, sinh khương

Ý nghĩa: tang bạch bì thanh phế nhiệt lợi tiểu; hoàng cầm, hoàng liên, sơn chi để thanh nhiệt ở thượng tiêu; hạnh nhân, bối mẫu, tô tử để giáng khí hóa đàm tuyên phế, sinh khương tán ngoại tà.

Ngoài ra còn thể dùng phương dược Bạch hổ thang gia hoàng cầm, chỉ thực, qua lâu; hoặc phương từ thuốc nam như mạch môn, bạc hà, lá dâu, chỉ thiên, rễ tranh, cam thảo dây.

Phương huyệt: châm tả Đại chùy, Phong trì, Phong môn, Liệt khuyết, Đản trung, Thiên đột, Phong long, Định suyễn, Khúc trì, Hợp cốc.

Hen do ẩm thực:

Triệu chứng:

- Ăn phải thức ăn không thích hợp nên có cơn hen.

- Tiếng thở như tiếng ngáy, thô ráp, mệt, cảm giác tức hơi.

- Đầy trướng ngực bụng.

- Mạch hoạt thực.

Pháp trị: tiêu thực tích.

Phương dược: dùng la bạc tử với nước cốt gừng hòa với mật ong uống.

- Tuệ Tĩnh dùng: tô tử, trần bì, nhục quế, riềng, nhân sâm. Lượng thuốc bằng nhau, dùng để chữa ho hen, thở gấp, khí nghịch bụng đau như dùi đâm.

Ý nghĩa bài thuốc: quế để ôn trung, riềng tiêu thực; sâm bổ khí; trần bì lý khí hóa đờm chỉ ho suyễn.

Thanh kim đơn: la bạc tử (sao); tạo giác thích (đốt tồn tính); chỉ thực; sinh khương; sắc uống lúc nóng.

Phế khí hư:

Triệu chứng:

- Thở gấp, đoản khí.

- Tiếng ho khẽ, yếu, tiếng nói nhỏ không có sức.

- Tự hãn, sợ gió.

- Miệng khô, mặt đỏ, hầu họng khô.

- Lưỡi hơi đỏ.

- Mạch phu nhu tế.

Pháp trị: dưỡng phế định suyễn.

Phương dược: Sinh mạch định tán gia vị: đảng sâm, mạch môn, ngũ vị tử; gia: sa sâm, bối mẫu, quế chi, huỳnh kỳ, cam thảo.

Ý nghĩa: sa sâm, mạch môn để bổ dưỡng khí âm; ngũ vị tử để thu liễm phế khí; sa sâm, bối mẫu để nhuận phế hóa đàm; quế chi, huỳnh kỳ, cam thảo để ôn ích phế khí.

Phương huyệt: cứu bổ Thái uyên, Thiên lịch, Phế du, Trung phủ, Khí hải, Đản trung, Quan nguyên, Tỳ du.

Thận khí hư:

Triệu chứng:

- Suyễn lâu ngày, thở ra dài hít vào ngắn.

- Làm việc là suyễn, vận động là thở gấp, nghỉ ngơi đỡ hơn.

- Tinh thần mệt mỏi, ra nhiều mồ hôi, thở có lúc ngắt quãng.

- Tây chân lạnh, đau lưng, ù tai.

- Mạch trầm tế.

Pháp trị: bổ thận nạp khí.

Phương dược Thận khí hoàn gia giảm: thục địa, hoài sơn, sơn thù, phục linh, trạch tả, đơn bì, nhục quế, phụ tử, nhân sâm, ngũ vị tử, phá cố chỉ.

- Ý nghĩa: thục địa, hoài sơn, sơn thù bổ thận âm; quế phụ để ôn thận dương; nhân sâm, ngũ vị tử, phá cố chỉ để ôn thận nạp khí.

Nếu có thêm triệu chứng: phù, tim đập hồi hộp, thở gấp đó là do dương quá hư thủy tràn, dùng pháp trị: ôn dương lợi thủy.

Phương dược: Chân vũ thang (thương hàn luận): phụ tử, bạch truật, bạch thược, bạch linh, sinh khương.

- Ý nghĩa: phụ tử để ôn thận tỳ, trợ dương khí; bạch linh để thẩm thấp kiện tỳ; bạch truật để kiện tỳ lợi thấp; bạch thược để liễm âm dưỡng huyết chỉ thống; sinh khương để trợ phụ tử ôn dương tán hàn.

- Phương huyệt: cứu bổ Thái uyên, Thiên lịch, Khí hải, Đản trung, Mệnh môn, Thận du, Phế du, Thái khê, Phục lưu.

Sau khi hết cơn háo suyễn, ngoài cơn suyễn có thể tập luyện Yoga khí công các bài tập về phổi, xoa bóp bấm huyệt vùng ngực, vùng lưng trên; nếu có điều kiện dùng bài thuốc bổ khí hoặc bổ phế thận.

BS.CKII. HUỲNH TẤN VŨ

(Đơn vị điều trị ban ngày - Cơ sở 3 BV. Đại học Y Dược TP.HCM)

Thìa là

Còn gọi là rau thì là; tên khoa học Anathum graveolens, họ Hoa tán Apiaceae. Cây trồng bằng hạt, lấy thân, lá làm gia vị. Cây cỏ, thân cao 60-80cm. Lá mọc so le, có bẹ xẻ thùy lông chim 3 lần. Cụm hoa tán kép gồm 5-15 tán nhỏ hoa vàng, mọc ở ngọn cành và kẽ lá. Quả và lá có tinh dầu kích thích tiêu hóa, bổ tỳ vị, thông kinh lợi tiểu lợi sữa. Thìa là được trồng khắp nơi ở nước ta, chủ yếu để lấy lá ăn nấu với cá. Làm thuốc thì dùng quả.

Trong công nghiệp hương liệu quả thìa là được dùng phối hợp với một số quả khác như mùi để làm thơm chè. Quả thìa là được dùng chữa các bệnh sau:

- Khó tiêu, chướng bụng, nôn mửa, nấc: Dùng 10g hạt sắc uống.

- Huyết áo cao, xơ vữa động mạch dẫn tới nhức đầu khó ngủ: hạt thìa là 5g giã nhỏ; sắc uống ngày 2 lần; uống liên tục nhiều ngày làm giảm cholesterol trong máu.

thì là phòng bệnh

- Viêm thận, sỏi bàng quang, sỏi thận: giã hạt thìa là 5g hãm như trà; uống 5-6 lần trong ngày.

- Ít sữa : hạt thìa là 10g sắc uống hàng ngày.

- Chữa bệnh đường hô hấp: trong trường hợp cảm lạnh, cúm, hoặc viêm cuống phổi. Dùng khoảng 60g hạt chế trong nước sôi, lọc lấy nước hòa với mật ong, chia 3 lần uống trong ngày.

- Chữa rối loạn kinh nguyệt: thì là có tác dụng kích thích và điều hòa chu kỳ kinh nguyệt. Nó làm giảm đau trong các trường hợp đau bụng kinh ở các thiếu nữ và trong các trường hợp bế kinh gây ra bởi thiếu máu, cảm lạnh hoặc do có thai, dùng 60g dịch chiết lá thì là trộn chung với 1 muỗng nước ép rau mùi tây, chia 3 lần uống trong ngày.

- Chữa hơi thở hôi: nhai hạt thì là mỗi ngày sẽ cải thiện được hơi thở, giúp hơi thở thơm tho hơn.

Lương y Minh Chánh



Đông y trị rối loạn tiêu hóa ở trẻ em

Rối loạn tiêu hóa ở trẻ em còn gọi là chứng thực tích, tích trệ, Nguyên nhân có thể do ăn uống hay có trùng tích làm ảnh hưởng đến công năng hoạt động của tỳ vị. Y học cổ truyền thường sử dụng các vị thuốc có tác dụng kích thích tiêu hóa có chứa tinh dầu, axit hữu cơ và nhóm có tác dụng làm mạnh tỳ vị điều trị căn bệnh này.

Các bài thuốc thường dùng

Trẻ có biểu hiện bụng đầy, đau, ăn kém, tiêu chảy 3 - 4 lần, phân sống, có khi nôn: Ý dĩ 6g, sơn tra 4g, trần bì 2g, mạch nha 6g. Tất cả sao vàng, tán thành bột, hòa nước ấm cho trẻ uống, ngày 2 lần.

Nếu trẻ có thêm hiện tượng sốt kèm chứng viêm nhiễm khác như ho, chảy mũi, đi tiêu nhiều lần, phân có bọt, trẻ chán ăn: Đảng sâm, hoắc hương, tía tô, ý dĩ mỗi vị 6g, trần bì, gừng khô mỗi vị 2g. Sắc cho trẻ uống lúc thuốc còn ấm chia nhỏ nhiều lần trong ngày.

Trẻ bị tiêu chảy nhiều lần kèm sốt, mất nước, thóp lõm xuống: Cát căn, kim ngân hoa 8g, tô mộc 4g, vàng đắng 4g. Sắc uống ngày 1 thang. Bài thuốc này có vị đắng, khó uống, có thể cho thêm ít quả đại táo cho dễ uống.

Các bài thuốc trị rối loạn tiêu hóa ở trẻ

Các bài thuốc trị rối loạn tiêu hóa ở trẻ: cháo rau sam; cà rốt; nước nụ vối;....

Nếu trẻ đi cầu nhiều lần, phân sống, mùi chua, biểu hiện suy dinh dưỡng, nên kiện tỳ tiêu thực cho trẻ: Đảng sâm, hoài sơn, ý dĩ mỗi thứ 6g, nhục đậu khấu, trần bì, mạch nha, hậu phác mỗi vị 4g, sắc ngày 1 thang chia nhiều lần cho trẻ uống trong ngày.

Bên cạnh các bài thuốc trên, chúng ta cũng có thể sử dụng các vị thuốc tiêu thực để chế biến thành các món ăn dinh dưỡng cho trẻ, đồng thời hỗ trợ bộ máy tiêu hóa của trẻ ngăn ngừa các rối loạn đường ruột.

- Cháo rau sam, lấy 50g rau sam tươi rửa sạch cắt thật nhỏ, vài đọt búp ổi non cắt nhỏ, gạo tẻ một nắm, vo sạch, cho vào nồi, đổ thêm nước, đun trên lửa nhỏ. Khi cháo chín và rau nhừ nêm thêm ít muối. Có thể chắt lấy nước cháo cho trẻ uống ngày 2 - 3 lần. Ăn trong 2 - 3 ngày.

- Cháo cà rốt, ô mai mơ, lấy 1 củ cà rốt nhỏ, thêm 5 quả ô mai mơ (xí muội), 1 nắm gạo tẻ, đem cà rốt rửa sạch, thái thật nhỏ, lấy cơm của quả ô mai thái nhỏ, gạo rang vàng. Tất cả cho vào nồi với 200ml nước, đun trên lửa nhỏ, cháo chín là được. Ngày ăn 2 lần lúc đói, ăn liền 2-3 ngày.

- Cháo sơn dược, lấy 1 nắm gạo tẻ, thêm 10g hoài sơn (củ mài), hạt sen 10g. Tất cả cho vào nồi, nước vừa đủ, nấu chín nhừ tán nhuyễn cho trẻ ăn trong ngày.

- Uống thêm nước nụ vối, gừng 2g. Cách làm: Nụ vối, vỏ lựu, gừng rửa sạch cho vào nồi thêm nước đun sôi kỹ, chắt lấy nước bỏ bã. Chia 3 lần uống trong ngày. Cần uống 2 - 3 ngày.

- Nước gạo rang, gạo tẻ 1 nắm đem rang vàng, cho vào nồi thêm nước đun sôi kỹ, lấy nước gạo rang pha bột cho trẻ uống, có thể dùng trong 2 - 3 ngày, khi thấy dứt các triệu chứng trên thì ngưng.

Có thể xoa bóp quanh vùng rốn để làm giảm cảm giác đầy trướng cho trẻ.

Lưu ý: Nếu điều trị cho trẻ 2 - 3 ngày bệnh không thuyên giảm cần đưa trẻ đến cơ sở y tế để khám và điều trị.

Bác sĩ Hoài Hương



Bài thuốc từ hành chữa bệnh hen

Hành tây có hai loại là hành đỏ và hành trắng. Hành tây đỏ rất giàu chất chống oxy hóa và được biết đến nhiều nhờ đặc tính chống viêm. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng hợp chất thiosulphinate có trong hành tây đỏ là thành phần chống viêm tốt nhất. Ngoài ra, hành, đặc biệtt là hành tây đỏ chứa các thành phần chống oxy hóa quercetin và anthocyanin cyanidin dưới dạng các flavonoid, giúp điều trị các bệnh dị ứng trong đó có bệnh hen.

Hành tây đỏ là một trong những biện pháp tốt nhất để điều trị bệnh hen.

hành tây trị hen

Dưới đây là cách sử dụng hành tây để trị hen:

Thành phần:

Dùng khoảng 1/2kg hành tây đỏ

Khoảng 6-8 thìa mật ong

Khỏng 300g đường nâu

Hai quả chanh

5-6 cốc nước

Phương pháp:

Đun nóng đường cho tới khi bắt đầu tan chảy. Thêm hành tây đỏ cắt nhỏ và khuấy đều. Sau đó cho thêm nước. Đun sôi cho tới khi nước chỉ còn 1/3. Để nguội và sau đó thêm nước chanh và mật ong. Để qua đêm trong một lọ thủy tinh.

Cách sử dụng:

Người lớn dùng một thìa canh (tương đương 15ml), trẻ con dùng một thìa cà phê (tương đương 5ml) trước mỗi bữa ăn khi có triệu chứng.

Bạn cũng có thể ăn hành sống hoặc nấu chín với mỗi bữa ăn.

BS Thu Vân

(Theo Boldsky)

Điều trị sốt xuất huyết bằng thuốc nam và châm cứu

Y học cổ truyền quan niệm sốt xuất huyết Dengue thuộc ôn bệnh, do nhiệt độc xâm nhập vào cơ thể gây ra. Khi phát bệnh ôn nhiệt dịch độc uất ở kinh dương minh gây sốt cao, phiền nhiệt, khát nước, mạch hồng đại, nhiệt chuyển vào dinh huyết gây xuất huyết phát ban, chất lưỡi đỏ sẫm. Bệnh nặng lên sau 3 – 4 ngày, nếu không chữa kịp thời thì nhiệt độc lấn sâu vào trong, làm cho xuất huyết phủ tạng, huyết áp hạ, mạch nhanh và có thể dẫn tới tử vong.

Giai đoạn nhiệt độc xâm phạm phần vệ (Đông y gọi là thể Ôn tà uất biểu và Tà trở mạc nguyên) tương đương với SXH độ 1 theo phân loại của Tổ chức Y tế Thế giới. Biểu hiện phát sốt (ban đầu có thể kèm theo cảm giác sợ lạnh), đau đầu, đau lưng, đau mình mẩy và cơ khớp, môi khô miệng khát, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi trắng hoặc vàng mỏng, muộn hơn có thể xuất hiện triệu chứng như mặt đỏ, mắt đỏ, chân tay tê bì, ngực bụng đầy tức, nôn hoặc buồn nôn, đại tiện táo kết hoặc lỏng nát, tiểu tiện sẻn đỏ...

Lá khế.

Giai đoạn nhiệt độc xâm phạm phần khí và dinh huyết (Đông y gọi là thể Khí dinh lưỡng phiền) tương đương với SXH độ 2 theo phân loại của Tổ chức Y tế Thế giới. Biểu hiện sốt cao và rất cao, môi khô miệng khát, tâm trạng bồn chồn không yên, có ban xuất huyết dưới da và niêm mạc.

Phép chữa: lấy thanh nhiệt giải độc, lương huyết chỉ huyết làm chủ.

Bài thuốc gồm các vị sau: Lá tre 60g, rễ cỏ tranh 16g, lá khế 60g, kim ngân hoa 12g, cỏ nhọ nồi 16g, cam thảo 8g. Cách dùng: Mỗi ngày sắc uống 1 thang, ngày uống 2 lần.

Nếu bệnh nhân có xuất huyết gia trắc bách diệp sao đen 12g. Sau khi uống thuốc hầu hết các bệnh nhân giảm sốt nhanh, hết đau đầu, không có xuất huyết, không khát nước và đặc biệt bệnh nhân không phải bù dịch. Ngày điều trị trung bình từ 4 đến 7 ngày.

Nếu bệnh nhân có đau đầu nhiều, sốt cao kết hợp với châm cứu. Các huyệt thường dùng: đại chùy huyết hải, hợp cốc, phong trì, khúc trì.

Dùng thủ pháp, châm tả huyệt đại chùy, huyệt phong trì không châm sâu.

Tác dụng của những huyệt trên là thanh dinh lương huyết, thanh nhiệt giải độc, ích khí sinh tân.

Sau khi châm 1 đến 2 phút bệnh nhân hạ sốt, hết đau đầu.

Vị trí huyệt:

Đại chùy: Giữa đốt sống cổ 7 và mỏm gai đốt sống lưng 1. Cách châm: châm thẳng 0,5- 1,5 tấc. Không được châm sâu hơn.

Hợp cốc: Ở chỗ lồi nhất của cơ khi ngón tay cái và ngón tay trỏ kẹp sát nhau. Cách châm: châm thẳng 0,5 đến 1 tấc.

Khúc trì: Ở chỗ lõm tại đầu ngoài nếp khuỷu. Tại điểm chính giữa đường nối huyệt xích trạch với mỏm trên lồi cầu ngoài của xương cánh tay, khi khuỷu tay hơi co lại. Cách châm: châm thẳng, sâu 0,5- 1 tấc.

Huyết hải: Cách bờ trên xương bánh chè 2 tấc về phía trên, giữa chỗ phình của cơ rộng trong. Cách xác định đơn giản: ngồi đối diện bệnh nhân, lòng bàn tay phải của thầy thuốc đặt lên xương bánh chè bên trái của bệnh nhân; huyệt sẽ nằm tại chỗ đầu mút ngón tay cái của thầy thuốc. Cách châm: châm thẳng 1-1,5 tấc.

Phong trì: Ở chỗ lõm giữa cơ ức- đòn chũm và phần trên cơ thang. Nói cách khác, ở giữa chỗ lõm thẳng phía dưới ụ chẩm và xương chũm. Cách châm: châm thẳng, mũi kim hướng về hố mắt phía đối diện, sâu 1- 1,5 tâc, không được châm quá sâu.

BS. Đỗ Minh Hiền

Dược thiện hỗ trợ trị viêm phế quản

Thời tiết cuối thu lập đông, trời hanh khô làm gia tăng bệnh viêm phế quản, nhất là ở trẻ em và người già. Theo Đông y, khí hậu khô hanh gây ra loại nhiệt bệnh ngoại cảm gọi là thu táo. Lúc đầu tà vào phần vệ khí, sau đó vào phần phế khí. Xin giới thiệu một số bài thuốc trị bệnh theo từng giai đoạn.

Mùa thu thời tiết hanh khô làm gia tăng bệnh viêm phế quản.

Khi tà vào phần vệ khí: Người bệnh hơi sốt, hơi sợ lạnh, nhức đầu, ra mồ hôi ít, ho khan hay ho ít đờm mà dính, mũi khô, họng khô, lưỡi đỏ, khát nước, rêu lưỡi trắng, mạch sác. Phép chữa là tân lương nhuận phế. Dùng một trong các bài thuốc:

Bài 1: tang chi 8g, hạnh nhân 16g, sa sâm 12g, bối mẫu 8g, đậu xị 8g, chi bì 8g, lệ bì 8g. Sắc uống ngày 1 thang. Tác dụng thanh tuyên táo nhiệt, nhuận phế chỉ khái. Trị ho ít đờm, họng khô khát, phế bị táo, ôn, viêm đường hô hấp trên.

Bài 2: hạnh nhân 10g, liên kiều 10g, bạc hà 4g, tang diệp 12g, cúc hoa 8g, cát cánh 10g, cam thảo 4g, lô căn 10g. Sắc uống. Trị phong ôn mới phát, ho, sốt, cảm cúm, viêm phế quản, viêm đường hô hấp cấp tính.

Giai đoạn này người bệnh nên kết hợp ăn uống các món sau:

Nước la hán hạnh nhân: la hán 1 quả, hạnh nhân 10g. La hán nghiền đập vụn, hạnh nhân giã dập, cùng sắc lấy nước, thêm chút đường uống. Ngày 1 lần sắc hãm. Dùng cho các trường hợp viêm khí phế quản, cảm mạo, ho có đờm.

Hạnh lê ẩm: hạnh nhân 10g, lê to 1 quả. Lê gọt vỏ thái lát. Cả hai thứ nấu chín, thêm chút đường phèn khuấy cho tan đều. Dùng cho bệnh nhân viêm khí phế quản cấp tính dạng viêm khô, nóng sốt, ho khan ít đờm.

Khi tà vào phần phế khí: Người bệnh sốt, ho nhiều, không đờm, suyễn, mũi họng khô, bực dọc, khát, nhức đầu, rêu lưỡi khô trắng mỏng, cạnh lưỡi và đầu lưỡi đỏ thẫm, mạch phù sác. Phép chữa là thanh phế nhuận táo chỉ khái. Dùng một trong các bài thuốc:

Bài 1: Thanh táo cứu phế thang: a giao 8g, hồ ma nhân 12g, thạch cao 12g, tang diệp 12g, cam thảo 6g, đảng sâm 16g, mạch môn 16g, hạnh nhân 12g, tỳ bà diệp (bỏ lông chích mật) 8g. Sắc uống ngày 1 thang.

Bài 2: tang bạch bì 12g, mạch môn 12g, lá tre 12g, lá hẹ 8g, sa sâm 12g, thạch cao 16g, thiên môn 12g, hoài sơn 12g. Sắc uống ngày 1 thang.

Món ăn thuốc kết hợp chữa bệnh:

Nhuận phế tán: qua lâu 1 quả bỏ hạt tán mịn, trộn với bột củ năn thành bánh, nướng chín vàng, tán bột. Cho uống mỗi lần 3g. Hòa với nước sôi thêm đường cho uống ngày 3 lần. Dùng cho trẻ em ho khan do viêm khí phế quản sốt nóng, ho gà dài ngày (bách nhật khai).

Lê hấp đường phèn, bối mẫu: lê to 1 quả, xuyên bối mẫu 3g, đường phèn 6g. Lê gọt vỏ, tách bỏ hạt, bối mẫu tán bột; cho vào cùng hầm chín cho ăn. Dùng cho các trường hợp viêm khô khí phế quản, ho ít đờm, lao phổi ho khan, ho gà, ho do dị ứng, viêm họng.

Cháo trúc lịch: nước ép tre vầu tươi 100ml, gạo tẻ 80-100g. Gạo nấu cháo, khi được cháo cho trúc lịch vào khuấy đều. Ngày làm 1 lần chia 2 lần ăn. Dùng cho các trường hợp viêm khí phế quản sốt nóng, ho đờm ít vàng dính.

Hạnh nhân ướp đường phèn: hạnh nhân 30g, đường phèn 30g. Hạnh nhân đập bỏ vỏ cứng, đường phèn nghiền đập vụn trộn đều. Sáng, chiều mỗi lần cho ăn 9g. Dùng cho các trường hợp viêm khí phế quản mạn tính, ho khan dài ngày đờm dính.

Ngoài uống thuốc và các món ăn hỗ trợ, có thể kết hợp hằng ngày châm cứu hoặc xoa bóp các huyệt: trung phủ, phế du, xích trạch, thái uyên, hợp cốc, khúc trì.

Vị trí huyệt:Trung phủ: Dưới cuối ngoài xương đòn gánh khoảng 1 tấc, hoặc giữa xương sườn 1 và 2, cách đường giữa ngực 6 tấc.Phế du: Dưới gai đốt sống lưng 3, đo ngang ra 1,5 tấc.Xích trạch: Gấp cẳng tay vào cánh tay để xác định nếp nhăn da tương ứng với khớp khuỷu, sờ vùng giữa nếp nhăn này thấy một gân to của cơ hai đầu cánh tay, huyệt nằm ở chỗ lõm cạnh bờ ngoài gân này.Thái uyên: Trên lằn chỉ ngang cổ tay, nơi chỗ lõm trên động mạch tay quay, dưới huyệt là rãnh mạch tay quay.Hợp cốc: Khép ngón trỏ và ngón cái sát nhau, huyệt ở điểm cao nhất của cơ bắp ngón trỏ ngón cái.Khúc trì: Co khuỷu tay vào ngực, huyệt ở đầu lằn chỉ nếp gấp khuỷu, nơi bám của cơ ngửa dài, cơ quay 1, cơ ngửa ngắn khớp khuỷu.

Lương y Thảo Nguyên

Bài thuốc trị viêm họng, thanh quản

Sau đây là một số bài thuốc nam rất hiệu quả trị viêm họng và thanh quản, xin giới thiệu để bạn đọc có thể tham khảo áp dụng:

Viêm họng: người bệnh có biểu hiện họng khô, đau rát, nuốt nước bọt thấy đau, niêm mạc họng bị phù nề, sung huyết, tiếng nói thô, có thể có sốt, đau đầu, nghẹt mũi chảy nước mũi, toàn thân mệt mỏi. Dùng một trong các bài thuốc:

Bài 1: kim ngân hoa 10g, liên kiều 12g, bồ công anh 16g, cát cánh 12g, mạch môn 16g, tô diệp 16g, trần bì 10g, phòng sâm 12g, hoàng bá 12g, sinh khương 4g, cam thảo 10g. Ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần.

Bài 2: huyền sâm 12g, tía tô 16g, kinh giới 16g, trần bì 10g, cam thảo 10g, đinh lăng 20g. Ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần.

Bài 3: phòng phong 12g, kinh giới 16g, xạ can 10g, cát cánh 12g, tế tân 6g, kim ngân hoa 10g, tang diệp 16g, quế chi 6g, thiên niên kiện 10g, cam thảo 10g. Ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần.

Viêm thanh quản: người bệnh có biểu hiện tiếng nói khàn hoặc mất tiếng, ho kéo dài, đau rát họng hơi thở nóng. Nguyên nhân do bị nhiễm phong hàn hoặc phong nhiệt không được điều trị đúng cách, diễn biến dai dẳng dẫn đến viêm thanh quản. Phép trị là trừ phong tà, thanh yết hầu, chống viêm, tuyên phế. Dùng một trong các bài thuốc:

Bài 1: huyền sâm 12g, đan bì 10g, khương hoạt 12g, tế tân 6g, mạch môn 12g, tang diệp 16g, rau má 20g, đinh lăng 20g, cát cánh 12g, trần bì 10g, hạnh nhân 10g, bạch thược 12g, cam thảo 10g. Ngày 1 thang sắc 3 lần uống 3 lần.

Bài 2: phòng phong 12g, tế tân 6g, xạ can 10g, huyền sâm 12g, mạch môn 12g, ngũ vị 10g, thương nhĩ (sao) 16g, tang bạch bì 12g, bách bộ 10g, trần bì 12g, xuyên khung 10g, bạch chỉ 10g. Sắc uống ngày 1 thang.

Bài 3: đậu đen 10g, rượu trắng 500ml, cam thảo 30g, trần bì 20g. Đậu đen sao cho bốc khói, cam thảo để sống thái lát, trần bì sao thơm. Cho các dược liệu vào bình sành, đổ 500ml rượu, đậy nắp thật kín rồi đem chôn xuống đất trong 45 ngày. Sau đó mở bình lấy rượu để sử dụng. Ngày uống 30 -35ml chia làm nhiều lần, mỗi lần từng ít một. Công dụng: trừ phong, tuyên thông phế khí chống viêm, lợi yết hầu.

Lương y Đình Thuấn

Cách dùng lộc nhung chữa bệnh

Lộc nhung là sừng non chưa bị xương hóa và mọc lông nhung dày đặc của con đực loài hươu sao hoặc hươu ngựa. Khi dùng làm sạch lông, thái miếng mỏng ngâm rượu hoặc sấy khô bảo quản dùng dần. Theo Đông y, lộc nhung tính ôn, vị ngọt, mặn, lợi về kinh can, thận. Có tác dụng bổ thận, ích huyết, giải độc cơ thể. Trong y học hiện đại, thuốc từ nhung hươu có tác dụng tăng cường thể lực, nâng cao sức khỏe, cải thiện giấc ngủ. Nhung hươu có thể làm tăng lượng hồng cầu; dùng với liều lượng vừa phải có tác dụng trợ tim; thúc đẩy quá trình tái sinh vết thương ngoài da, xương gãy mau liền...

Bột lộc nhung tăng cường sức khỏe: Lộc nhung 200g, nghiền thành bột mịn. Ngày uống 1 lần, mỗi lần 1-3g. Dùng cho các bệnh thiếu máu, nhức đầu, hoa mắt, ù tai, sức khỏe yếu.

lộc nhung

Hoàn viên lộc nhung bổ huyết: Lộc nhung 30g, hoàng kỳ 150g, long nhãn 500g. Nhung hươu đem ngâm với rượu, sấy khô, nghiền chung với long nhãn, hoàng kỳ thành bột mịn luyện với mật ong, hoàn viên. Uống bằng nước sôi ấm, ngày 2 lần, mỗi lần 10g. Dùng cho người thiếu máu, nhức đầu thể hư hàn, sợ lạnh.

Cao lộc nhung mạnh xương, phát dục: Lộc nhung 30g, đương quy 45g, hoàng kỳ 90g, nhân sâm 10g, địa hoàng 100g. Lộc nhung và nhân sâm nghiền thành bột. Địa hoàng, hoàng kỳ, đương quy: sắc lấy nước (sắc 3 lần, lấy 3 nước trộn với nhau, bỏ bã) hòa bột nhân sâm, lộc nhung vào, thêm mật ong, luyện nhuyễn thành cao. Uống ngày 2-3 lần, mỗi lần 5ml, dùng cho trẻ em còi xương, chậm lớn, phát dục kém.

Thuốc trợ dương: Lộc nhung 50g, đương qui 100g, hồng sâm 100g, hoàng kỳ 250g, dâm dương hoắc 250g, bạch thược 250g.

Lộc nhung có thể ngâm rượu cho nhuận, sấy khô rồi nghiền chung với 5 vị thuốc trên, tán bột mịn, uống ngày 2 lần, mỗi lần 5g chiêu với rượu. Chữa liệt dương, di tinh, hoạt tinh.

Rượu lộc nhung: Lộc nhung 6g, sơn dược 30g, rượu trắng 500ml.

Ngâm trong 10-15 ngày là dùng được. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 10- 20ml. Dùng cho nam giới liệt dương, hoạt tinh, đau mỏi lưng; nữ giới khó có thai, băng huyết (rong kinh, băng kinh), khí hư.

Hoặc dùng bài: Lộc nhung 20g, đông trùng hạ thảo 90g, rượu 1.500ml.

Ngâm trong 15-30 ngày là dùng được. Ngày uống 2-3 lần, mỗi lần 10ml. Dùng cho người thận dương hư, liệt dương, đau lưng, ăn uống kém.

BS. ĐẶNG VĂN NAM

Cách dùng lộc nhung chữa bệnh

Lộc nhung là sừng non chưa bị xương hóa và mọc lông nhung dày đặc của con đực loài hươu sao hoặc hươu ngựa. Khi dùng làm sạch lông, thái miếng mỏng ngâm rượu hoặc sấy khô bảo quản dùng dần.Theo Đông y, lộc nhung tính ôn, vị ngọt, mặn, lợi về kinh can, thận. Có tác dụng bổ thận, ích huyết, giải độc cơ thể. Trong y học hiện đại, thuốc từ nhung hươu có tác dụng tăng cường thể lực, nâng cao sức khỏe, cải thiện giấc ngủ. Nhung hươu có thể làm tăng lượng hồng cầu; dùng với liều lượng vừa phải có tác dụng trợ tim; thúc đẩy quá trình tái sinh vết thương ngoài da, xương gãy mau liền...

Bột lộc nhung tăng cường sức khỏe: lộc nhung 200g, nghiền thành bột mịn. Ngày uống 1 lần, mỗi lần 1-3g. Dùng cho các bệnh thiếu máu, nhức đầu, hoa mắt, ù tai, sức khỏe yếu.

Hoàn viên lộc nhung bổ huyết: lộc nhung 30g, hoàng kỳ 150g, long nhãn 500g. Nhung hươu đem ngâm với rượu, sấy khô, nghiền chung với long nhãn, hoàng kỳ thành bột mịn luyện với mật ong, hoàn viên. Uống bằng nước sôi ấm, ngày 2 lần, mỗi lần 10g. Dùng cho người thiếu máu, nhức đầu thể hư hàn, sợ lạnh.

Cao lộc nhung mạnh xương, phát dục: lộc nhung 30g, đương quy 45g, hoàng kỳ 90g, nhân sâm 10g, địa hoàng 100g. Lộc nhung và nhân sâm nghiền thành bột. Địa hoàng, hoàng kỳ, đương quy: sắc lấy nước (sắc 3 lần, lấy 3 nước trộn với nhau, bỏ bã) hòa bột nhân sâm, lộc nhung vào, thêm mật ong, luyện nhuyễn thành cao. Uống ngày 2-3 lần, mỗi lần 5ml, dùng cho trẻ em còi xương, chậm lớn, phát dục kém.

Thuốc trợ dương: Lộc nhung 50g, đương qui 100g, hồng sâm 100g, hoàng kỳ 250g, dâm dương hoắc 250g, bạch thược 250g.

Lộc nhung có thể ngâm rượu cho nhuận, sấy khô rồi nghiền chung với 5 vị thuốc trên, tán bột mịn, uống ngày 2 lần, mỗi lần 5g chiêu với rượu. Chữa liệt dương, di tinh, hoạt tinh.

Rượu lộc nhung: lộc nhung 6g, sơn dược 30g, rượu trắng 500ml.

Ngâm trong 10-15 ngày là dùng được. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 10-20ml. Dùng cho nam giới liệt dương, hoạt tinh, đau mỏi lưng; nữ giới không có thai, băng huyết (rong kinh, băng kinh) khí hư.

Hoặc dùng bài: lộc nhung 20g, đông trùng hạ thảo 90g, rượu 1.500ml.

Ngâm trong 15-30 ngày là dùng được. Ngày uống 2-3 lần, mỗi lần 10ml. Dùng cho người thận dương hư, liệt dương, đau lưng, ăn uống kém.

BS. Đặng Văn Nam

Cách đơn giản cắt cơn say rượu tức thì

Thuốc giải rượu không giải được rượu như ta nghĩ

Theo PGS.TS.BS Bùi Quang Huy, trên thị trường có nhiều loại thuốc giải rượu nhưng hầu như thường kết hợp 2 trong 1 theo hai cơ chế. Thứ nhất, thuốc làm môn vị dạ dày (một cơ vòng nối liền dạ dày với đoạn đầu của ruột non) đóng lại trước khi uống rượu. Theo đó, rượu sẽ nằm trong dạ dày, không bị đi xuống ruột non và khiến người uống có cảm giác không say.

Đến một thời gian nhất định sau khi uống, môn vị dạ dày cần mở ra, rượu sẽ ồ ạt chảy xuống dưới khiến mức độ ảnh hưởng lớn hơn. Lượng rượu trong máu quá cao nên đa số những người uống thuốc giải rượu không thể dậy nổi vào sáng hôm sau.

Thứ hai, thuốc giải rượu góp phần làm chuyển hóa rượu. Về điều này, chuyên gia nhấn mạnh trên thực tế, không có bất cứ loại thuốc nào giúp chuyển hóa rượu nhanh hơn như nhiều người vẫn lầm tưởng.

Những loại thuốc giải rượu được bán ở thị trường, thành phần chính là vitamin nhóm B, vitamin PP, B1, B2, B6. Chúng có thể giúp chuyển hóa nhưng đó là chuyện sau này, không phải tức thì khi uống rượu.

Khi uống thuốc, thuốc sẽ nằm ở dạ dày cùng rượu nên rất khó để hấp thu. Kể cả khi đã được hấp thu, chúng chỉ có tác dụng làm chuyển hóa thuận lợi hơn chứ không phải nhanh hơn. Do đó, trông đợi vào thuốc giải rượu và các loại vitamin là sai lầm.

Riêng vitamin B1, PGS Huy cảnh báo, B1 chỉ được tiêm vào bắp nhưng không phải để giải rượu cho người say mà chỉ tiêm để bệnh nhân thật đau và nhớ, sau không uống rượu nữa. Một lưu ý khác là nếu tiêm B1 qua đường tĩnh mạch sẽ gây sốc và tử vong.

Theo PGS.TS.BS Bùi Quang Huy, Trưởng khoa Tâm thần (Bệnh viện 103), để cắt cơn say đơn giản nhất là nên móc họng nôn ra. Ảnh: minh họa

Móc họng để cắt cơn say nhanh chóng

PGS Huy khuyến cáo các đấng mày râu nên hạn chế uống rượu, nếu uống thì trước đó nên ăn (nhất là các chất đạm, chất béo).

Nếu trót đã uống nhiều thì biện pháp đơn giản nhất để giải rượu là móc họng nôn và uống nước lọc, nếu cảm thấy khó, có thể pha nước chè, nước đường cho dễ uống. Mục đích của việc này là để đi vệ sinh nhiều thải hết rượu ra.

Ở phương Tây, các bác sĩ thường cho uống nước máy trực tiếp để giải rượu cho bệnh nhân. Chỉ cần để qua đêm, lượng rượu sẽ được chuyển hóa hết mà không cần làm gì.

Theo lý giải của PGS. Huy, khi rượu vào máu, thời gian phân hủy là 2 giờ, cứ sau mỗi 2 giờ, nồng độ rượu trong máu giảm đi một nửa. Chúng thải ra bằng các cách chuyển hóa hết ở gan, hô hấp hoặc nước tiểu (10% nguyên vẹn qua nước tiểu).

Giải rượu bằng các loại nước củ, quả

PGS.TS.BS Bùi Quang Huy cũng đưa ra một vài cách giải rượu bằng các loại nước hoa quả như sau:

Lấy lá rau cần rửa sạch, giã nát, vắt nước cốt, pha chút đường uống từ từ. Loại nước này không chỉ giã rượu mà còn giảm đa đầu một cách hiệu quả.

Dùng 100-200 g lá dong (lá dùng gói bánh chưng) giã nát, lấy nước cốt pha đường uống.

Trà búp 5 g, 16 g quất tươi thái vụn (có thể thay bằng quất khô) hãm nước sôi uống.

Uống bột sắn dây có vắt chanh, một lúc sau sẽ tỉnh.

Giã nát củ cải trắng, thêm chút đường, uống nhiều lần.

Ăn các món ăn từ đậu xanh, có thể giã cả vỏ nấu cùng đường.

Lấy quả chanh tươi vắt nước uống, hoặc thái lát mỏng ngậm từ từ.

Thanh Loan (ghi)

Cảm mạo phong hàn và cao xoa liệu pháp

Nguyên nhân do chính khí kém, phong hàn xâm phạm vào phần da, phế làm mất công năng tuyên giáng của phế, kết hợp vệ khí bị trở ngại phát sinh các chứng ho, sợ lạnh, sợ gió, nhức đầu, ngạt mũi, mạch phù khẩn. Người bệnh có biểu hiện sốt nhẹ, sợ lạnh, sợ gió, nhức đầu, ngạt mũi, chảy nước mũi, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch phù. Nếu kèm thêm thấp thì người và các khớp xương đau nhức. Để trị liệu căn bệnh này, Đông y dùng phép chữa là phát tán phong hàn, nếu kèm theo thấp thì thêm trừ phong thấp với 2 nhóm biện pháp chính là không dùng thuốc và dùng thuốc. Không dùng thuốc bao gồm châm cứu, xoa bóp, day bấm huyệt, chích lể, cạo gió... Dùng thuốc bao gồm thuốc uống trong hoặc thuốc xông, xoa, bôi, đắp bên ngoài (nội ẩm ngoại đồ), trong đó không thể không nói đến các loại cao xoa được bào chế bằng nhiều loại dược liệu và dưới nhiều dạng khác nhau nhưng bản chất vẫn là việc sử dụng tinh dầu thiên nhiên - là một loại chất lỏng có hương thơm đặc trưng được chiết xuất từ các loại hoa cỏ hoặc thực vật.

Kết hợp dùng bài thuốc xông với các loại dược liệu.

Kết hợp dùng bài thuốc xông với các loại dược liệu.

Có rất nhiều loại tinh dầu chiết xuất từ dược liệu được sử dụng để phòng chống cảm mạo phong hàn nhưng tinh dầu tràm, tinh dầu quế, tinh dầu bạc hà, tinh dầu long não và tinh dầu hương nhu là thường được dùng hơn cả.

Tinh dầu tràm: chứa cineole đạt ít nhất trên 60%. Ngoài ra còn giàu các terpineol, linalool, limonen. Có tác dụng sát khuẩn đường hô hấp, kích thích trung tâm hô hấp, giảm đau, chống viêm, long đờm..., thường được dùng trong xoa bóp chữa đau nhức, ho, cảm mạọ, dạng xông chữa viêm họng, chữa cảm cúm, hen suyễn, ho gà... Đặc biệt, với mùi hương nhẹ nhàng dễ tạo ra cảm giác thoải mái, tỉnh táo.

Tinh dầu quế: là tinh dầu 1-3% (Dược điển Việt Nam III quy định không dưới 1%) có thành phần chính là aldehyd cinnamic (không dưới 85%). Ngoài ra, thành phần của tinh dầu quế còn gồm các hợp chất như diterpenoid, phenylglycosid, flavonoid, tanin và coumarin. Tinh dầu quế vị cay ngọt, tính ấm, có tác dụng phát hãn giải biểu (làm ra mồ hôi), ôn kinh thông dương, sát khuẩn, kích thích hệ thống thần kinh, tiêu hóa, tăng cường lưu thông máu, thúc đẩy nhu động ruột, dùng đặc biệt tốt cho những trường hợp cảm mạo phong hàn không ra mồ hôi.

Tinh dầu bạc hà: có màu vàng nhạt, mùi hương the mát tinh khiết và đem lại cảm giác sảng khoái khi sử dụng, được chiết xuất hoàn toàn từ cây bạc hà qua phương pháp chưng cất hơi nước, thành phần chính của nó bao gồm có menthol, menthyl acetat, L-pinen, L-menthon, L-limonen, flavonoid. Loại tinh dầu này vị cay, tính mát, có công dụng giải biểu, thanh lợi đầu mắt, lợi hầu thấu chẩn, sát khuẩn, giảm đau thần kinh, hạ sốt làm lỏng chất nhầy, giúp tiêu hóa, kích thích tiết mật, dùng để chữa các chứng bệnh: cảm mạo, ngạt mũi, nhức đầu, đau họng, ho có đờm, đau răng. Ngoài ra, còn dùng để kích thích tiêu hóa, chữa đau bụng đi ngoài.

Tinh dầu long não: có thành phần chính là camphor > 40%. Loại tinh dầu này vị cay, tính ấm, có tác dụng làm ấm cơ thể, giảm đau nhức, mỏi cơ, làm tan vết bầm tím, kích thích hoạt động của thần kinh, cơ tim, hệ tuần hoàn, hệ hô hấp nói chung.

Tinh dầu hương nhu: có thành phần chủ yếu là eugenol > 60%. Tinh dầu này vị cay, tính hơi ôn, có tác dụng sát khuẩn, làm ra mồ hôi, giảm đau, hạ sốt, cầm máu, tăng lượng máu tới thận lợi thấp, hành thủy, kích thích tiêu hóa, thường được dùng chữa cảm mạo, cảm nắng, nhức đầu, đau bụng, nôn, tiêu chảy, thủy thũng.

Để phòng chống cảm mạo phong hàn, có thể dùng đơn độc một loại tinh dầu hoặc kết hợp vài ba loại với nhau một cách có chọn lọc nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Có nhiều cách dùng khác nhau như khuếch tán bằng đèn xông, nhỏ vài giọt vào cốc nước nóng hoặc thấm vào bông hay giấy ăn để cách mũi 2-3cm để hít ngửi 10-20 phút theo cách ngắt quãng mỗi ngày 3-4 lần, hòa vào nước tắm hoặc bôi xoa vào lòng bàn tay, bàn chân vài ba lần trong ngày...Dùng tinh dầu thiên nhiên giải cảm là một trong những phương pháp thay thế việc dùng nồi lá xông theo cách cổ truyền.

Hiện nay, trên cơ sở kế thừa kinh nghiệm cổ truyền và bằng công nghệ hiện đại, các nhà dược học đã lựa chọn và kết hợp nhiều loại tinh dầu khác nhau một cách hợp lý và cho ra đời sản phẩm chế từ tinh dầu thiên nhiên dưới dạng cao xoa vừa tăng tính hiệu quả vừa tiện sử dụng bằng cách bôi, xoa, xông, cạo gió...nhằm mục đích trừ phong, thông kinh hoạt lạc, giải cảm, tán tà.

ThS. Hoàng Khánh Toàn

Cá rô phi bổ huyết, dưỡng xương khớp

Tài liệu gần đây cho biết cá rô phi giàu vitamin và khoáng chất, protein, axit béo omega-3, selen, phốt-pho, kali, vitamin B, niacin, vitamin B và axit pantothenic… đều là dưỡng chất rất cần thiết cho sức khỏe…

Theo Đông y, thịt cá rô phi vị ngọt, tính bình, không độc, tác dụng bổ khí huyết, ích tỳ thận, dưỡng xương khớp... Dùng bổ dưỡng cho người già suy giảm trí nhớ, trẻ em còi cọc chậm lớn, thiếu máu, nhức mỏi, đái tháo đường, tăng huyết áp, suy nhược dùng đều tốt. Sau đây là một số món ăn - thuốc từ cá rô phi.

Cá rô phi thơm ngon, có thể chế biến thành nhiều món ngon bổ có tác dụng tăng cường sức khỏe phòng trị nhiều bệnh.

Cá rô phi thơm ngon, có thể chế biến thành nhiều món ngon bổ có tác dụng tăng cường sức khỏe phòng trị nhiều bệnh.

Chữa huyết hư suy giảm trí nhớ: Dùng bài “Lẩu cá rô phi”: cá rô phi, xương heo, nấm rơm, nấm hương, cà chua, đậu phụ, dứa, cà chua, rau ăn cần, hoa lý, giá đỗ, gia vị vừa đủ nấu lẩu ăn. Tác dụng: dưỡng khí huyết, ích ngũ tạng, tăng kháng thể… Trị chứng huyết kém, mệt mỏi, đau đầu chóng mặt, nhức mỏi, ngoại cảm nội thương dùng đều tốt.

Chữa trẻ em còi cọc chậm lớn: Dùng bài “Cháo cá rô phi”: cá rô phi, gạo tẻ ngon, đậu xanh, hành hoa, rau mùi, gừng, hành, mắm, gia vị vừa đủ nấu ăn. Cá rô phi hấp lấy thịt xào mỡ hành cho thơm. Gạo vo sạch nấu cháo, cháo chín nhừ cho cá, rau gia vị vào là được. Tác dụng: Bổ tỳ vị dưỡng khí huyết, ích ngũ tạng… Trị chứng khí huyết hư, trẻ em còi, người lớn mệt mỏi khó lên cân.

Chữa đau nhức xương khớp: Dùng bài “Cá rô phi kho lá lốt”: cá rô phi, lá lốt, hành, tiêu, mắm, gia vị vừa đủ kho nhừ ăn. Tác dụng: dưỡng khí huyết, ích tỳ thận, trừ thấp… Trị các chứng phong thấp nhức mỏi, gân cơ yếu.

Chữa tăng huyết áp: Dùng bài “Canh cá rô om rau cần”: cá rô phi, rau cần, hành tím, tiêu, mắm, muối, dầu ăn, gia vị vừa đủ om ăn. Tác dụng: Kiện tỳ hóa đàm, lợi thấp, hạ áp... Trị chứng đau đầu chóng mặt, khó ngủ, có tuổi suy giảm trí nhớ, suy nhược.

Chữa đái tháo đường: Dùng bài“Cá rô phi nấu canh rau cải”: cá rô phi, rau cải canh, gừng, hành, mắm, muối, dầu ăn gia vị vừa đủ. Cá rô phi hấp hoặc nướng lấy thịt xào mỡ hành cho thơm nấu canh ăn. Tác dụng: Bổ khí huyết, kiện tỳ thận… Trị chứng tỳ vị hư ăn kém, mệt mỏi, đái tháo đường.

Chữa phụ nữ sau sinh ăn kém ít sữa: Dùng bài “Cá rô phi kho nghệ”: cá rô phi, thịt chân giò lợn, nghệ, hành tím, đường, tiêu, mắm muối gia vị vừa đủ kho ăn… Tác dụng: Bổ tỳ vị dưỡng khí huyết, lợi sữa… Trị chứng tỳ hư, mệt mỏi do thiếu đạm

Chữa thiếu máu mệt mỏi: Dùng bài “Canh chua cá rô phi”: cá rô phi, cà chua, dứa, me, giá đậu, rau ngổ, hành lá, ớt, mắm, gia vị vừa đủ nấu canh ăn. Tác dụng: bổ khí huyết, ích tỳ thận… Trị chứng suy nhược ăn kém, chứng vàng da thấp nhiệt.

Lương y Minh Phúc

Học thuyết thủy hỏa của Hải Thượng Lãn Ông

Tại sao lại gọi là “Học thuyết Thủy hỏa”?

Học thuyết thủy hỏa hay còn gọi là học thuyết tâm thận, được Hải Thượng Lãn Ông xây dựng dựa trên cơ sở của các học thuyết âm dương, ngũ hành, tạng tượng của YHCT Đông phương. Với thuyết âm, dương, thủy thuộc nước thuộc âm, hỏa thuộc lửa thuộc dương, với thuyết ngũ hành, thủy hỏa lại là hai hành tương khắc với nhau, với thuyết tạng tượng, hai tạng tâm, thận lại nằm trong phạm vi “ngũ tạng”. Tuy nhiên chúng lại thường xuyên có sự giao nhau trong cuộc sống, hai thứ đó luôn có mối quan hệ hữu cơ, ví như ánh sáng của mặt trời là nguồn gốc tạo ra sức sống của muôn vật, nước thì nuôi sống muôn loài. Cuộc sống không thể thiếu một trong hai thứ đó. Trên cơ sở như vậy, Hải Thượng Lãn Ông lấy sự cân bằng của hai tạng tâm thận trong cơ thể làm gốc với nguyên tắc “Giáng tâm hỏa và ích thận thủy”. Ông cho rằng “Con người cũng như vũ trụ, muốn tồn tại, phải có hỏa”, cái hỏa trong con người trước hết thuộc tạng tâm (quân hỏa), tiếp theo là cái hỏa của thận (tướng hỏa). Hai thứ hỏa này luôn được cân bằng với phần “thủy” của tâm huyết: Phần âm của tâm và thận thủy: thận âm. Hải Thượng cho rằng, bệnh tật phát sinh trong con người là do sự thiên lệch của thủy và hỏa, tức có sự mất cân bằng của hai tạng tâm và thận. Ông cho rằng “chữa bệnh nặng không biết đến thủy, hỏa; chữa bệnh nhẹ không biết đến khí huyết thì chẳng khác chi trèo cây tìm cá”.

Hải Thượng Lãn Ông.
Vận dụng của thuyết Thủy hỏa!

Hải Thượng Lãn Ông cho rằng, đối với người mà chân dương thịnh thì phải bổ âm, người chân âm thịnh thì phải bổ dương; tuy vậy khi bổ âm phải kèm theo vị bổ dương để không ảnh hưởng đến tỳ vị. Thông thường để bổ âm, Hải Thượng khuyên dùng phương lục vị; còn khi bổ nguyên khí củng cố chân hoả của thận thì dùng phương bát vị. Còn người âm dương đều hư thì ông khuyên dùng phương thập toàn đại bổ.

Ngoài ra, Hải Thượng đã vận dụng phép biến phương vào hai phương lục vị và bát vị để tạo ra tới hơn 50 phương thuốc khác nhau để trị rất nhiều loại bệnh tật trong cơ thể. Chẳng hạn từ phương “lục vị”, một cổ phương do Trương Trọng Cảnh danh y đời nhà Hán xây dựng, gồm thục địa 8 lạng, phục linh, đan bì, trạch tả, mỗi vị 3 lạng, sơn thù du, hoài sơn, mỗi vị 4 lạng. Các vị luyện mật ong làm hoàn ngày uống 12 -16g, dùng để chữa thận âm hư, tinh khô, huyết kiệt, đau lưng, mỏi gối, hoa mắt ù tai, tiêu khát. Hải Thượng đã gia thêm cúc hoa, kỷ tử mỗi thứ 3 lạng vào phương “lục vị” tạo ra phương Kỷ cúc địa hoàng hoàn, trị thận âm hư gây hoa mắt, thị lực giảm. Cũng với cách làm tương tự, ông gia đương quy, bạch thược, kỷ tử, cúc hoa, thạch quyết minh, bạch tật lê vào Lục vị để có phương Minh mục địa hoàng hoàn, trị mắt khô, quáng gà, giảm thị lực.

Đối với cổ phương bát vị hoàn: thục địa 8 lạng, sơn thù du, hoài sơn, mỗi vị 4 lạng, đan bì, trạch tả, phục linh, mỗi vị 3 lạng, phụ tử, nhục quế, mỗi vị 1 lạng. Các vị luyện mật ong làm hoàn ngày uống 12-16g, dùng để bổ thận dương, trị chứng mệnh môn suy, người gầy, lưng gối đau lạnh tiểu không lợi hoặc không kiềm chế được. Tiểu đêm nhiều lần, Hải Thượng đã dùng quế chi thay quế nhục để có phương Kim quỹ thận khí hoàn, trị phù do thận, khí huyết bị ứ trệ. Bát vị hoàn gia ngưu tất, xa tiền thành Tế sinh thận khí hoàn, trị thuỷ thũng, phù nề, bụng đầy trướng.

Học thuyết Thủy hỏa của Hải Thượng Lãn Ông không những vừa mang tính sáng tạo, tính thực tiễn mà còn mang tính khoa học của thời đại.

GS.TS. Phạm Xuân Sinh

Bài thuốc trị đau nhức khớp

Ðau nhức các khớp thuộc phạm vi chứng tý của y học cổ truyền. Nguyên nhân do vệ khí của cơ thể không đầy đủ; phong, hàn, thấp nhiệt xâm phạm vào cân, cơ, khớp xương, kinh lạc làm sự vận hành của khí huyết tắc lại gây nên. Hoặc do người già can thận bị hư, hoặc bệnh lâu ngày làm khí huyết giảm sút dẫn đến can thận hư, can huyết hư không nuôi dưỡng được cân làm khớp xương bị thoái hóa, biến dạng...

Người bệnh thường đau mỏi các khớp; khi thời tiết lạnh, mưa, ẩm thấp, đau tăng lên hoặc tái phát, lâu ngay trở thành mạn tính. Tùy theo triệu chứng lâm sàng mà phân ra các thể: phong tý, hàn tý, thấp tý. Phương pháp chung là khu phong tán hàn trừ thấp. Sau đây là một số bài thuốc trị theo từng thể.

Tần giao là rễ khô của các cây họ long đởm.

Đau nhức khớp do phong tý hay hành tý: Nguyên nhân do phong là chính. Người bệnh có triệu chứng đau di chuyển các khớp, đau nhiều khớp, sợ gió, rêu lưỡi trắng, mạch phù. Phép chữa: khu phong là chính, tán hàn trừ thấp, hoạt huyết hành khí. Dùng một trong các bài:

Bài 1:Phòng phong thang gia giảm: phòng phong, khương hoạt, bạch thược, đương quy mỗi vị 12g; tần giao, quế chi, phục linh, ma hoàng mỗi vị 8g; cam thảo 6g. Sắc uống.

Bài 2: thổ phục linh, ké đầu ngựa, hy thiêm, rễ vòi voi, mỗi vị 16g; uy linh tiên, tỳ giải, ý dĩ, cam thảo nam, mỗi vị 12g; quế chi, bạch chỉ, mỗi vị 8g. Sắc uống.

Đau nhức khớp do hàn tý hay thống tý: Nguyên nhân do hàn là chính. Người bệnh đau dữ dội ở một khớp, trời lạnh đau tăng, chườm nóng thì đỡ, tay chân lạnh, sợ lạnh, rêu lưỡi trắng, mạch huyền khẩn hoặc nhu hoãn. Phép chữa: tán hàn là chính, khu phong trừ thấp, hành khí hoạt huyết. Dùng một trong các bài:

Bài 1: quế chi, can khương, thiên niên kiện, ngũ gia bì, ngưu tất, xuyên khung, mỗi vị 8g; rễ cây lá lốt, ké đầu ngựa, ý dĩ, mỗi vị 12g. Sắc uống.

Bài 2: quế chi, can khương, phụ tử chế, thiên niên kiện, uy linh tiên, thương truật, xuyên khung, ngưu tất, mỗi vị 8g; ý dĩ 12g. Sắc uống.

Bài 3:Ô đầu thang gia giảm: phụ tử chế, ma hoàng, bạch thược, hoàng kỳ, phục linh, mỗi vị 8g; cam thảo 6g. Sắc uống.

Thương truật.

Thương truật.

Đau nhức khớp do thấp khớp hay trước tý: Người bệnh nhức mỏi các khớp, đau một chỗ, tê bì, đau các cơ, bệnh lâu ngày làm người bệnh khó vận động, miệng nhạt, rêu lưỡi trắng dính, mạch nhu hoãn, người nặng nề mệt mỏi. Phép chữa: trừ thấp là chính, tán hàn khu phong, hành khí hoạt huyết. Dùng một trong các bài:

Bài 1: Ý dĩ nhân thang gia giảm: ý dĩ 16g; hoàng kỳ, đảng sâm, mỗi vị 12g; thương truật, ma hoàng, quế chi, khương hoạt, độc hoạt, phòng phong, ô dược, xuyên khung, ngưu tất, mỗi vị 8g; cam thảo 6g. Sắc uống.

Bài 2: ý dĩ, tỳ giải, mỗi vị 16g; ngũ gia bì, rễ cỏ xước, xuyên khung, đan sâm mỗi vị 12g; rễ cây lá lốt 8g; quế chi, bạch chỉ mỗi vị 6g. Sắc uống.

Lương y Đình Thuấn

Thuốc giảm đau thời cổ đại

Tuy nhiên, các nhà khảo cổ học cho thấy tổ tiên của chúng ta đã biết sử dụng các phương pháp giảm đau từ cây cỏ hiệu quả.

Cây kỳ nham

Cây kỳ nham (henbane) được sử dụng như một loại thuốc gây mê từ thời cổ đại. Loại cây này có chứa atropine (dùng làm thuốc giãn cơ) và scopolamine (dùng để ngăn ngừa nôn mửa, gây buồn ngủ). Cây kỳ nham được dùng từ thế kỷ thứ nhất sau CN để làm thuốc giảm đau. Ở Thổ Nhĩ Kỳ cổ đại, henbane được gọi là beng, chế thành thuốc viên hoặc hun khói dùng làm thuốc giảm đau răng, đau tai, khử trùng miệng.

Châm cứu

Châm cứu bắt nguồn từ thời đại đồ đá với những cách chữa bệnh đơn giản như dùng gai, que nhọn, xương thú, đá nhọn để trích một điểm trên da để giảm đau. Lâu dần, qua kinh nghiệm thực tiễn, người ta xác định được các điểm cần tác động khi muốn chữa một chứng bệnh. Quyển sách được coi là xưa nhất về châm cứu là cuốn “Nội kinh linh khu” viết cách đây gần 3000 năm (770-221 trước CN). Tại Châu u, ngay từ những năm đầu thế kỷ 20, phương Tây đã biết đến châm cứu nhưng châm cứu học không thể phát triển được ở đây. Tuy nhiên, khoa học hiện đại chứng minh châm cứu có hiệu quả giảm đau, gây tê như morphin.Cà độc dược.

Cà độc dược.

Cây khoai ma (mandragora)

Đây là một trong những thuốc gây mê đầu tiên làm cho người bệnh bất tỉnh. BS người Hy Lạp Dioscorides (49-90 sau CN) đã viết về tác dụng của rượu được nấu từ cây này gây ra giấc ngủ sâu giúp các bệnh nhân trải qua phẫu thuật mà không cảm thấy đau đớn. Đến thế kỷ 13, ở Italia, các thầy thuốc đã giới thiệu việc sử dụng miếng bọt biển ngâm trong dung dịch hòa tan mandragora, để lên mũi của bệnh nhân khiến bệnh nhân không còn cảm giác đau đớn.

Cà độc dược

Cà độc dược chứa nhiều alcaloid, chủ yếu là scopolamine (chất gây ảo giác mạnh) có tác dụng ngăn suyễn, giảm ho, chống đau, chống co giật. Loại cây này được xếp vào bảng có độc tính cao, thành phần alcaloid có khả năng hủy phó giao cảm, tạo ảo giác mạnh, gây mê sảng, hoang mang khiến con người không phân biệt được thực tế và ảo giác. Dùng cà độc dược liều cao, đặc biệt là hoa và lá có thể dẫn đến ngộ độc, mê sảng kéo dài, mất trí nhớ, thậm chí tử vong.

Ethylene

Theo ghi nhận trong sử sách, loại khí ethylene được sử dụng bởi nữ tu sĩ có tên là Pythia. Bà được mệnh danh là nhà tiên tri của Delphi và tu luyện tại đền thờ thần Apollo, Hy Lạp cổ đại. Tương truyền bà hít khí này vào sẽ có sức mạnh dự báo tương lai. Kể từ đó, khí này được sử dụng rộng rãi bởi các nhà tiên tri khác. Năm 1930, ethylene được ca ngợi như một thuốc gây mê toàn thân mới. Nó sẽ thay thế chloroform - chất này gây tác động hậu phẫu nghiêm trọng như tử vong đột ngột, buồn nôn sau phẫu thuật.

Cây cải cần thuộc họ diên hồ (Corydalis)

Ở Trung Quốc cổ đại, củ và rễ cây corydalis được đào lên đun sôi trong dấm và dùng để giảm đau đầu, đau lưng. Là họ hàng của cây anh túc, cây corydalis chủ yếu phát triển ở miền Trung Trung Quốc. Theo các nhà khoa học hiện đại, loại cây này có tác dụng giảm đau vì nó chứa dehydrocorybulbine (DHCB) - có tác dụng giảm đau mà không gây nhờn thuốc.

Cây liễu (willow)

Trong nhiều thế kỷ, vỏ cây liễu được sử dụng như một chất giúp giảm đau hiệu quả, đặc biệt là vỏ cây liễu trắng. Ebers Papyrus - một tập hợp các văn bản y khoa từ năm 1500 TCN mô tả việc sử dụng vỏ cây liễu như loại thuốc giảm đau. Người Trung Quốc và Hy Lạp cổ đại cũng sử dụng vỏ cây liễu cho mục đích này. Nghiên cứu hiện đại cho thấy vỏ cây liễu là thuốc giảm đau hiệu quả vì chứa salicin - một chất tương tự như aspirin - nhưng sử dụng vỏ cây liễu ở liều thấp hiệu quả hơn aspirin. Do hiệu quả của nó, phương pháp điều trị này vẫn được sử dụng hàng thế kỷ nay trong giảm đau do đau đầu, đau lưng và viêm xương khớp.

Minh Huệ

((Theo LS, 2017))

Phong cước khí và phép chữa

Phong cước khí là do cảm nhiễm phải khí phong thấp với các triệu chứng: sợ gió, các khớp xương đau nhức, từ chân đến đầu gối đau mỏi và sưng không đi lại được, có khi ngoài da tê dại, cấu vào không biết đau, mạch phù, hoãn. Phép chữa là tuỳ theo tiến triển của bệnh.

Đau nhức xương khớp (từ bàn chân đến đầu gối) - Một biểu hiện của phong cước khí.

Khi bệnh mới mắc, người bệnh sợ gió, các khớp xương đau nhức. Phép chữa là bổ chính khu tà. Dùng một trong các bài thuốc:

Bài 1: trúc lịch, tần giao, hoàng cầm, phòng kỷ, quế tâm, cam thảo, cát căn, ma hoàng, tế tân, can khương mỗi vị 4g; phòng phong, thăng ma mỗi vị 6g; phục linh, phụ tử mỗi vị 8g, hạnh nhân 50 hạt. Các vị sắc với 5 bát nước, cạn còn 2 bát, bỏ bã, chia uống làm 2 lần. Nên uống bài này khi bệnh mới phát.

Bài 2: cúc hoa 40g; cam thảo, nhân sâm mỗi vị 20g; thiên hùng, thạch hộc mỗi vị 18g; tục đoạn, trạch tả, tế tân, thạch vi, xương bồ, phục linh, phòng phong, can khương, hoài sơn, hoàng kỳ, viễn chí, tần giao, ngưu tất, đỗ trọng, sinh địa, bạch truật, tỳ giải mỗi vị 12g; ô đầu 6g. Các vị tán bột. Mỗi lần dùng 1 đồng cân, hòa với rượu nóng, uống ngày 3 lần. Nếu chưa khỏi thì mỗi lần uống thêm lên 2 đồng cân. Công dụng: khu phong tán hàn, bổ chính giúp bệnh khỏi mà chính khí không bị tổn thương.

Khi các khớp xương đều đau nhức, từ chân đến đầu gối tê dại và sưng, mạch phù, hoãn: Phép chữa là khu phong tiết tà. Dùng một trong các bài:

Bài 1: ma hoàng 4g, cát căn 8g, hoàng cầm 8g, phòng kỷ 12g, trúc lịch 40g (để riêng), phòng phong 8g, tần giao 8g, phục linh 20g, hạnh nhân 12g, cam thảo 2g. Đổ 6 bát nước vào ấm, sắc trước với ma hoàng cho cạn còn 4 bát, gạt bỏ bọt, cho các vị khác vào, sắc còn 1 bát rưỡi. Trúc lịch giã nát, cho nước vào khuấy đều, lọc lấy nước, cho vào nước thuốc trên, đun sôi kỹ, uống nóng 1 lần.

Sinh khương (gừng tươi) - một vị thuốc chữa cước khí.

Bài 2: khương hoạt 6g, phòng phong 6g, hoàng cầm 6g, cam thảo 2g, bạch linh 12g, mộc qua 8g, hoàng liên 4g, hoàng bá 4g, qua lâu 12g, sài hồ 6g, trạch tả 12g, mộc hương 4g. Các vị sắc với 4 bát nước còn 1 bát, uống 1 lần.

Thời kỳ bệnh nặng có nôn ọe, suyễn và đầy, tức là “cước khí xung tâm”: uống ngay bài Thù du mộc qua khương hoạt thang gồm ngô thù du 4g, binh lang 12g, khương hoạt 12g, mộc qua 6g, sinh khương 5 lát. Các vị sắc với 4 bát nước còn 1 bát, uống 1 lần.

Chứng bệnh này nếu không chữa ngay, dần dà khí độc lên tới thiên phúc, da thịt nơi đó cấu không biết đau, chỉ trong vòng 4-5 ngày sẽ phát sinh chứng nôn ọe, suyễn và đầy; rất khó chữa.

Lương y Thảo Nguyên